Savills cảnh báo tình trạng lạm phát tăng cao, nhà đầu tư 'chết trên đống tài sản'
Savills cảnh báo tình trạng lạm phát tăng cao, nhà đầu tư 'chết trên đống tài sản' (Ảnh minh hoạ: Trịnh Thu)
Savills Việt Nam vừa công bố báo cáo "Biến động giá bất động sản trong lạm phát", chỉ ra những diễn biến bất ngờ của tình hình kinh tế chính trị thế giới đang đẩy rủi ro lạm phát tăng cao, là biến số trực tiếp tác động đến thị trường địa ốc.
Theo đơn vị này, bất động sản được xem là kênh trú ẩn an toàn khi lạm phát diễn ra. Nhưng nếu chỉ số này tăng quá cao có thể kìm hãm tăng trưởng kinh tế và gây nhiều khó khăn cho thị trường bất động sản.
Tiến sĩ Sử Ngọc Khương, giám đốc cấp cao Savills Việt Nam, cho rằng dưới tác động của chiến tranh và ảnh hưởng của Covid-19, mục tiêu giữ lạm phát ở mức dưới 4% của Chính phủ là rất thử thách.
"Mục tiêu này chỉ có thể đạt được trong trường hợp nền kinh tế phục hồi đúng như kỳ vọng và tình hình chiến tranh giữa Nga và Ukraine được giải quyết ổn thỏa thông qua các đàm phán sớm", ông nhận định.
Trong bối cảnh này, ông cho rằng, có 3 kênh trú ẩn tài sản lớn là dầu mỏ, kim loại quý và bất động sản, trong đó bất động sản là phương án an toàn.
Giải thích rõ hơn cho nhận định này, ông Khương đưa ví dụ về một phân tích của Savills World Research. Đơn vị nghiên cứu này đã chỉ ra lạm phát chi phí đẩy (lạm phát xảy ra do các chi phí như nguyên vật liệu, chi phí lao động tăng) sẽ dẫn đến hạn chế nguồn cung bất động sản.
Đặc biệt, tại Việt Nam, thời gian qua nguồn cung bất động sản nhà ở rất hạn chế. Người dân chủ yếu đầu tư đất nền, còn các sản phẩm bất động sản nhà ở bao gồm đất và các tài sản trên đất chiếm tỷ lệ thấp hơn.
Vì vậy, tiến sĩ Khương nhận định trong bối cảnh bất ổn kinh tế - chính trị thế giới, lạm phát tăng nhanh và nguồn cung khan hiếm, thị trường bất động sản bao gồm cả phân khúc nhà ở và thương mại tại Việt Nam sẽ tăng giá đáng kể và là kênh đầu tư giúp giảm thiểu rủi ro trong bối cảnh lạm phát.
Tuy nhiên, đại diện Savills Việt Nam cũng nhấn mạnh khi lạm phát diễn ra, mặc dù giá bất động sản tăng lên nhưng thị trường không có khả năng mua, tính thanh khoản không có. Đồng thời, nhiều nhà đầu tư cũng dùng các đòn bẩy tài chính để đầu tư bất động sản, khiến tài sản có thanh khoản thấp trở thành một gánh nặng lớn cho họ cũng như gây áp lực lên hệ thống ngân hàng.
“Tôi cho rằng trong bối cảnh phức tạp như hiện nay, việc cân nhắc kỹ lưỡng khi sử dụng các đòn bẩy tài chính để đầu tư bất động sản là đặc biệt quan trọng, tránh lặp lại tình trạng "chết trên đống tài sản" đã từng xảy ra trong quá khứ. Trong 9-12 tháng tới, việc một số nhà đầu tư phải bán tháo tài sản do không thể gánh được sức ép từ các công cụ hỗ trợ tài chính là hoàn toàn có thể xảy ra", tiến sĩ Khương cảnh báo.
Song, ông đánh giá tính đầu cơ của nhóm này không lớn, khó có thể thao túng thị trường, làm ảnh hưởng đến mặt bằng giá. Bên cạnh đó, nguồn cung nhà ở tại Việt Nam trong thời gian tới còn hạn chế, nên việc giảm giá bất động sản khó xảy ra.
Phân tích rõ hơn về quan điểm này, ông Khương cho rằng trong lịch sử các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, gần như chỉ có một đợt khủng hoảng khiến giá bất động sản giảm là vào năm 2007-2008 với mức giảm 30-40%.
Riêng ở Việt Nam, chỉ trong giai đoạn khủng hoảng 2011-2012, giá bất động sản trên toàn thị trường giảm đến 30% bởi khi đó các nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính quá lớn. Còn lại, thực tế cho thấy sau mỗi cuộc khủng hoảng kinh tế, bất động sản lại tăng giá.
Về lời khuyên cho các nhà đầu tư, tiến sĩ Khương khuyến nghị các nhà đầu tư chú ý về giá và pháp lý của bất động sản trước khi quyết định xuống tiền. Còn những nhà đầu tư có ý định bán bất động sản lúc này cần cân nhắc mục đích sử dụng khoản tiền sau khi bán, ví dụ để đầu tư vào những kênh đầu tư hiệu quả hơn trong bối cảnh dịch bệnh, bất ổn chính trị quốc tế.
Ở góc độ vĩ mô, TS Khương lưu ý giá bất động sản tăng quá cao cũng làm ảnh hưởng đến sự hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài trong việc mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. Khi lạm phát, phân khúc bất động sản thương mại cũng phải đẩy giá dịch vụ, trong khi khả năng chi trả của doanh nghiệp còn hạn chế sau đại dịch Covid-19.