BOT thất thoát, BT "biến tướng", gánh nặng đè lên người dân
Giảm... 300 năm thu phí
Báo cáo tại hội thảo Dự án PPP và vai trò của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) diễn ra ngày 3/3, Bộ KH-ĐT cho biết, đến 31/12/2019, có tổng cộng 336 dự án đầu tư theo hình thức PPP được ký kết, với tổng số vốn khoảng 1.609.335 tỷ đồng.
Hình thức đầu tư chủ yếu là BOT và BT, trong đó BOT chiếm 41,6% (140/336) và BT chiếm 55,9% (188/336), chủ yếu tập trung trong lĩnh vực giao thông vận tải với 220 dự án, chiếm 65,5% trong tổng số các dự án được đầu tư theo hình thức PPP, còn lại là thuộc về các lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật, năng lượng, cấp thoát nước, môi trường...
Tuy nhiên, Ths. Lê Tùng Lâm - Phó Chánh Văn phòng KTNN, nhận xét, các dự án đầu tư PPP thời gian qua cũng bộc lộ một số sơ hở, thiếu sót, là lỗ hổng gây thất thoát Ngân sách Nhà nước.
Thời gian qua, trạm thu phí BOT gây ra nhiều "tai tiếng" về mức phí, thời gan thu phí (ảnh minh họa)
Cụ thể, từ năm 2016 đến năm 2019, KTNN đã thực hiện kiểm toán 84 dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT giao thông và 50 dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BT, kết quả kiểm toán cho thấy:
Đối với 84 dự án đầu tư theo hình thức BOT giao thông, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính hơn 4.684 tỷ đồng, trong đó nhiều dự án có tỷ lệ xử lý tài chính lớn từ 11% đến 13% giá trị được kiểm toán. Đồng thời, cơ quan này cũng kiến nghị giảm thời gian thu phí hoàn vốn so với phương án ban đầu của 81 dự án là 300 năm, trong đó có dự án giảm thời gian nhiều nhất là 13 năm 1 tháng 12 ngày.
Đối với 50 dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BT, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính 9.102 tỷ đồng, có những dự án tỷ lệ kiến nghị xử lý tài chính lớn từ 27% đến 29% giá trị được kiểm toán.
Vì vậy, ông Lê Tùng Lâm cho rằng, vấn đề đặt ra là nếu các dự án BOT, BT thời gian qua không được kiểm toán thì số tiền thất thoát sẽ rất lớn, mức độ chịu phí sẽ đè nặng lên người dân, doanh nghiệp và Ngân sách Nhà nước sẽ thất thoát lớn.
Qua các cuộc kiểm toán, KTNN chỉ ra những hạn chế, tồn tại của dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BT, như việc lựa chọn nhà thầu không minh bạch, không có tính cạnh tranh, chủ yếu là chỉ định thầu; vị trí đặt các trạm thu phí không được quy hoạch, không đúng cự ly quy định; phương án tài chính không đúng; chất lượng công trình kém; định giá đất thấp hơn rất nhiều giá đất thị trường...
Dự án BT bị biến tướng
Nhận xét về đầu tư theo hình thức PPP, tại hội thảo, TS. Nguyễn Minh Phong đã liệt kê những điểm mấu chốt tạo nên sức hấp dẫn với nhà đầu tư và cũng là kẽ hở đáng quan ngại của quản lý nhà nước đối với dự án BT.
Đó là việc chủ đầu tư được giành quyền chủ động dẫn dắt cuộc chơi do các dự án BT hầu hết đều được chỉ định thầu và dễ “bắt tay” thương lượng với cơ quan quản lý, từ lựa chọn dự án, xác định tổng mức đầu tư, thực hiện và quyết toán dự án. Hơn nữa, việc giám sát chất lượng công trình BT, dù áp dụng như với dự án đầu tư công, nhưng khá lỏng lẻo do DN tự giám sát, quản lý hoặc thuê tư vấn,..
Nếu các dự án BOT, BT thời gian qua không được kiểm toán thì số tiền thất thoát sẽ rất lớn.
Hơn nữa, cơ chế thanh toán bằng trái phiếu Chính phủ đã làm biến tướng BT thành dự án đầu tư công đích thực, nhất là đối với dự án được cơ quan quản lý “thông cảm”, ưu ái cho thanh toán một phần vốn trước khi công trình hoàn thành, giống như cơ chế giải ngân dự án đầu tư công thông thường khác.
Chẳng hạn, giai đoạn 2011-2015, Bộ GTVT đã triển khai 3 dự án BT với cơ chế thanh toán bằng tiền kiểu này, hay tỉnh Vĩnh Phúc thanh toán cho 2 dự án BT...
Về nguyên tắc, nhà đầu tư phải bỏ tiền ra làm trước, sau khi dự án được nghiệm thu và bàn giao mới được thanh toán bằng đất hoặc bằng tiền như hợp đồng. Thế nhưng, ông Nguyễn Minh Phong thẳng thắn, với những dự án BT được dùng tiền này chi trả cho nhà đầu tư ngay trong quá trình thi công thì BT đã thực sự “mất chất”,... và cánh cửa lợi nhuận cao cho nhà đầu tư càng mở rộng, giống như mọi dự án đầu tư công không qua đấu thầu và được độc quyền thực hiện khác.
Đến khi KTNN vào cuộc mới phát hiện ra nhiều sai phạm. Đại diện KTNN Khu vực I dẫn chứng, tại TP.HCM, dự án BT đường dẫn kết nối với cầu Phú Mỹ thanh toán bằng tiền, khi kiểm toán năm 2018 đã phải kiến nghị thu hồi, nộp trả ngân sách 355,4 tỷ đồng.
“Việc thanh toán bằng tiền đối với dự án BT làm mất đi bản chất và lợi thế của dự án BT, biến tướng dự án BT thành dự án sử dụng vốn ngân sách, làm lãng phí nguồn vốn đầu tư”, đại diện KTNN Khu vực I đánh giá.
Không những thế, cơ chế thanh toán bằng quỹ đất cũng hấp dẫn nhà đầu tư vì họ được quyền sử dụng quỹ đất không qua đấu thầu. Khi đó, nhà đầu tư có nhiều kỳ vọng vào khai thác “lợi nhuận kép” trong chênh lệch giá đất, từ việc định giá trị quỹ đất thấp trước khi triển khai dự án đến cơ hội tăng giá quỹ đất sau khi hoàn thành công trình.
“Đây là động lực hấp dẫn nhà đầu tư và cũng là kênh thất thoát tài sản công tiềm tàng và lớn nhất của dự án BT”, ông Phong nhận xét.
Trong khi đó, ông Đoàn Xuân Tiên, Phó Tổng KTNN, nhìn nhận, công tác kiểm toán các dự án PPP còn một số hạn chế, bất cập. Ví dụ như, dự thảo Luật PPP chưa coi PPP là dự án đầu tư công, các tài sản hình thành từ dự án PPP không phải là tài sản công và KTNN chỉ được kiểm toán phần tài sản mà Nhà nước đóng góp; KTNN mới tập trung kiểm toán về mặt khối lượng, giá trị và thời gian thu hồi phí của dự án mà chưa đánh giá đầy đủ giá trị nhà nước phải trả cũng như sự cần thiết phải đầu tư bằng hình thức PPP...
Do vậy, ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó Trưởng đoàn đại biểu QH tỉnh Quảng Bình, cho rằng, KTNN cần tham gia kiểm toán dự án ngay từ đầu. Muốn vậy cần có khung pháp lý ổn định cho các hợp đồng dài hạn, nhiều rủi ro.
“Không thể để đối tượng gây thiệt hại tài sản của nhà nước và nhân dân thì bình an vô sự. Quyền lợi được hưởng, có sự cố lại không có trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu hội đồng thẩm định. Thực tế đã có không ít những dự án đã gây thiệt hại cho Nhà nước mà người thẩm định lại vô can”.
Ngoài ra, để tránh việc “sân sau”, lợi ích nhóm trong thẩm định, phê duyệt, triển khai các dự án PPP, cần có thêm vai trò KTNN trong việc đánh giá, xác nhận, kết luận,... tách bạch rõ ràng, cụ thể vốn của Nhà nước và vốn của nhà đầu tư, cũng như kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.